- Trả lời:
Theo thư ông hỏi, tôi hiểu rằng hộ gia đình ông đang sử dụng ổn định đất
có nhà ở trước ngày 15-10-1993 và không có một trong các loại giấy tờ
quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật đất đai, không thuộc một trong các
trường hợp sử dụng đất quy định tại khoản 4 Điều 14 Nghị định
84/2007/NĐ-CP, được UBND cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù
hợp với quy hoạch đã được xét duyệt thì được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, phần diện tích trong hạn mức giao
đất ở ông không phải nộp tiền sử dụng đất; phần diện tích vượt hạn mức
giao đất ở ông phải nộp 50% tiền sử dụng đất (khoản 1 Điều 14 Nghị định
84/2007/NĐ-CP).
Hạn mức đất ở tại quận Tân Bình không quá 160m2/hộ. Căn cứ tính thu tiền
sử dụng đất là diện tích đất, giá đất và thời hạn sử dụng đất. Giá đất
do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định được công bố công
khai vào ngày 1-1 hằng năm được sử dụng làm căn cứ để tính tiền sử dụng
đất, lệ phí trước bạ (Điều 1 Quyết định 64/2001/QĐ-UBND của UBND Tp.HCM
ngày 30-7-2001, khoản 4 Điều 56 Luật đất đai).
Trong thư ông cũng cho rằng việc cơ quan thuế chưa giải quyết hồ sơ cho
ông là do chưa có quy định cụ thể thế nào là giá thị trường để làm căn
cứ thu tiền sử dụng đất đối với phần diện tích vượt hạn mức của ông
(theo Điều 11 Nghị định 69/2009/NĐ-CP).
Vấn đề này, theo tôi, cơ quan thuế đã nhầm lẫn trong việc áp dụng pháp
luật về tiền sử dụng đất, vì Điều 11 Nghị định 69/2009/NĐ-CP chỉ quy
định cho trường hợp: “Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất không
thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử
dụng đất”, còn trường hợp của ông là “công nhận quyền sử dụng đất đối
với người đang sử dụng đất ổn định”.
Thực tế việc cấp giấy chứng nhận trong trường hợp Nhà nước giao đất và
trường hợp Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất (đối với người đang sử
dụng đất ổn định) là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
Tại Điều 4 của Luật đất đai đã quy định: “Giao đất là việc Nhà nước trao
quyền sử dụng đất bằng quyết định hành chính cho đối tượng có nhu cầu
sử dụng đất”, “Công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng
đất ổn định là việc Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần
đầu cho người đó”. Hơn nữa, tại Điều 49 Luật đất đai cũng quy định việc
cấp giấy chứng nhận cho hai trường hợp này khác nhau.
Do vậy, việc “công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng”
không phải là trường hợp “Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất
không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án
có sử dụng đất”, nên việc áp dụng Điều 11 Nghị định 69/2009/NĐ-CP cho
trường hợp của ông là không đúng.
Căn cứ các quy định nêu trên, giá đất để tính tiền sử dụng đất là giá
đất do UBND Tp.HCM quy định và công bố hằng năm. Do đó, việc cơ quan
thuế trả lời rằng khi nào có thông tư mới giải quyết hồ sơ là không đúng
các quy định nêu trên của pháp luật.
Căn cứ điểm 2.3 mục II Thông tư 30/2005/TTLT-BTC-BTNMT, trong thời hạn 3
ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ bộ hồ sơ của người sử dụng đất thực
hiện nghĩa vụ tài chính, do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất chuyển
đến, cơ quan thuế xác định và ghi đầy đủ các khoản nghĩa vụ tài chính mà
người sử dụng đất phải thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành;
thủ trưởng cơ quan thuế ký, ghi rõ họ tên và đóng dấu vào tờ thông báo
nộp tiền sử dụng đất, thông báo nộp lệ phí trước bạ.
Trường hợp cơ quan thuế không giải quyết hồ sơ theo quy định, xâm phạm
tới quyền và lợi ích hợp pháp của ông thì ông có quyền khiếu nại chi cục
trưởng Chi cục Thuế quận Tân Bình theo các quy định của Luật khiếu nại,
tố cáo.
Trân trọng.
LS HUỲNH VĂN NÔNG
(Theo Tuổi trẻ)