. “Tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà. pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì phải ghi tên của cả vợ. và chồng”, luật sư Nông Thị Hồng Hà tư vấn..
Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 27 Luật Hôn
nhân và gia đình (Luật HN và GĐ): “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu
chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì
trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng. Trong
trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có
tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản
chung”.
Mảnh đất mà bố mẹ bạn mua trong thời kỳ hôn nhân nên
khi đăng ký quyền sử dụng đất, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ ghi cả
tên bố và tên mẹ bạn trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ),
song cũng không phải trong mọi trường hợp GCNQSDĐ đều ghi tên cả vợ và
chồng. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, trong trường hợp tài
sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định
phải đăng ký quyền sở hữu nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ
ghi tên của vợ hoặc chồng.
Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN và
GĐ đã quy định: “…Nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ
chồng; nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy
chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế
riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được
từ nguồn tài sản riêng… Trong trường hợp không chứng minh được tài sản
đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì theo quy định tại khoản 3
Điều 27 tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng".
Như vậy, nếu bố bạn muốn đứng tên một mình trên
GCNQSDĐ thì phải chứng minh quyền sử dụng mảnh đất trên thuộc sở hữu của
cá nhân bố bạn và không nhập vào khối tài sản chung vợ chồng.
Theo thông tin bạn nêu thì tiền mua đất là của riêng
mẹ bạn, nên chỉ mẹ bạn mới có thể đứng tên một mình trên GCNQSDĐ nếu
chứng minh được mảnh đất này được mua bằng tiền riêng của mẹ bạn và bà
không nhập mảnh đất vào khối tài sản chung vợ chồng.
Trong trường hợp cả hai người đều không chứng minh
được mảnh đất này được mua bằng tiền riêng của mình thì mảnh đất nói
trên đương nhiên thuộc sở hữu chung vợ chồng, GCNQSDĐ sẽ mang tên cả bố
và mẹ bạn.
Tuy nhiên, trong trường hợp cần phải phòng ngừa việc
bố bạn tìm cách đứng tên một mình trên GCNQSDĐ thì mẹ bạn cũng nên có
văn bản gửi UBND cấp quận, huyện nơi có mảnh đất đề nghị ghi tên cả hai
vợ chồng vào GCNQSDĐ.
Tại khoản 20 Điều 4 Luật Đất đai có quy định: “Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là giấy chứng nhận do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp cho người sử dụng đất để bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp
của người sử dụng đất”.
Trong Quy định về cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất… trên địa bàn thành phố Hà Nội ban hành
theo Quyết định số 117/2009/QĐ-UBND ngày 01/12/2009 của UBND TP Hà Nội,
cơ quan có thẩm quyền không yêu cầu cá nhân đề nghị cấp GCNQSDĐ phải có
hộ khẩu tại Hà Nội nên về nguyên tắc, cá nhân không có hộ khẩu tại Hà
Nội vẫn có thể được cấp GCNQSDĐ.
Như vậy, mẹ bạn mặc dù không có hộ khẩu ở Hà Nội thì vẫn có thể đứng tên trên GCNQSDĐ.
Luật sư Nông Thị Hồng Hà
Công ty Luật Hồng Hà
Số 2 ngõ Thi Sách, phố Thi Sách, Hà Nội
Theo Vnexpress
(Nguồn sưu tầm)