Đó là khẳng định của Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Đầu tư Bất Động sản Toàn Cầu, ông Nguyễn Quốc Hiệp tại hội thảo 'Tìm kiếm nguồn vốn cho thị trường BĐS 2016' do Báo Lao động tổ chức sáng 23/3/2016.
Ông Hiệp cho rằng, hiện nay nguồn vốn để phát triển dự án BĐS thương mại nằm ở 3 nguồn chính gồm: Nguồn vốn của chính các doanh nghiệp địa ốc - chủ dự án, nguồn vốn tín dụng ngân hàng và nguồn vốn ứng trước của khách hàng.
Đối với nguồn vốn thứ nhất, theo ông Nghĩa, nguồn vốn này mang tính danh nghĩa nhiều hơn. Lý do là, theo các quy định hiện hành vốn tự có có doanh nghiệp tối thiểu 20% vốn/tổng mức đầu tư. Phần vốn này hiện nay thường sử dụng cho việc giải phóng mặt bằng hoặc nộp tiền đất và các công việc chuần bị đầu tư khác. Nguồn vốn đó chỉ đóng vai trò khởi động ban đầu.
Trong khi đó, nguồn vốn thứ hai là tiền ứng trước của khách hàng, đây là một nguồn vốn khá lớn về mặt giá trị và có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển các dự án BĐS, ông Hiệp cho hay. Song, Luật kinh doanh BĐS 2015 quy định nhà hình thành trong tương lai chỉ được phép thanh toán tối đa đến 70%. Do đó, nếu trông chờ vào nguồn vốn này rất nguy hiểm vì hai khó khăn dễ xảy ra là nhà không bán được và tiền khách hàng trả trước không đủ chi.
Ông Hiệp khẳng định: "Với phần lớn các dự án BĐS thương mại, tín dụng từ ngân hàng là nguồn vốn phải trông cậy. Thế nhưng, gần đây Ngân hàng Nhà nước có đưa ra dự thảo thông tư 36 về vấn đề nâng cao hệ số rủi ro từ 150% lên 250% và cắt giảm việc sử dụng vốn ngắn hạn vào dự án trung dài hạn từ 60% xuống còn 40%. Tôi cho rằng, cách làm này là chưa hợp lý".
Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Đầu tư Bất Động sản Toàn Cầu GP Invest, Ông Nguyễn Quốc Hiệp. |
Có thể nói việc theo dõi sức khỏe tín dụng của Ngân hàng hết sức cần thiết và quan trong nhưng có thể nên bằng biện pháp khác chứ không phải bằng thông tư 36 hỏi ý kiến cả xã hội như cách làm hiện nay dễ gây ra những tâm lý lo lắng ảnh hưởng tới sự phát triển chung của ngành kinh doanh sản xuất".
Lãnh đạo BĐS Toàn cầu chia sẻ: "Chúng tôi cho rằng, nếu tín dụng của chúng ta làm rạch ròi để phục vụ doanh nghiệp và người tiêu dùng thuần túy đồng thời có các tiêu chí truyền thống về tiêu chuẩn an toàn để được cấp tín dụng thì chắc chắn sẽ chẳng phải lo lắng gì, người mua nhà chỉ được vay tối đa 70% giá trị hợp đồng và dùng chính căn nhà đã trả một phần tiền của mình để thế chấp thì gần như rất ít khả năng rủi ro xảy ra, nhưng ở Việt Nam chúng ta cái cần quan tâm cảnh giác để tránh nguy cơ tín dụng bị vỡ thì lại là khía cạnh khác".
Một là, cần rạch ròi và kiểm soát chặt chẽ hoặc thậm chí không nên cho phép tình trạng sở hữu chéo giữa ngân hàng thương mại và chủ đầu tư dự án BĐS. Đây là nguy cơ dễ xảy ra tình trạng vỡ tín dụng nhất, một khi ngân hàng thương mại sử dụng nguồn vốn huy động để đầu tư vào BĐS, nếu địa ốc trầm lắng hoặc khủng hoảng thì số vốn của ngân hàng đó đổ vào dự án sẽ mắc kẹt gây vỡ trận ngay.
Hai là, Ngân hàng Nhà nước cần kiểm tra chặt chẽ việc cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại đối với các chủ đầu tư dự án làm sao phải thật đảm bảo an toàn. Theo đó, mỗi ngân hàng thương mại cần xác định tiêu chí cho vay của mình đối với doanh nghiệp BĐS.
"Xét về toàn cục thị trường và nhất là quyền lợi của người tiêu dùng, Ngân hàng Nhà nước cần xem xét lại định hướng mục tiêu của thông tư 36 để làm sao vẫn hạn chế được rủi ro của bong bóng địa ốc nếu có mà không làm ảnh hưởng tới quyền lợi thiết thực của người dân", ông Hiệp kiến nghị.
(Trí thức trẻ)