Theo Dự thảo Thông tư quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở đang được Bộ Xây dựng đưa ra lấy ý kiến, cá nhân, tổ chức nước ngoài không được sở hữu quá 30% tổng số căn hộ trong dự án hoặc 10% tổng số nhà ở riêng lẻ trong cùng dự án.
Cá nhân, tổ chức nước ngoài sở hữu không quá 30% số căn hộ một chung
cư. (Ảnh minh họa).
Dự thảo Thông tư nêu rõ, đối với một tòa nhà chung cư kể cả nhà ở có mục đích sử dụng hỗn hợp thì cá nhân, tổ chức nước ngoài sở hữu không quá 30% tổng số căn hộ của tòa nhà đó.
Chẳng hạn, tòa nhà có 100 căn hộ thì cá nhân, tổ chức nước ngoài được sở hữu không quá 33 căn, khi tòa nhà có 200 căn hộ thì chỉ được sở hữu không quá 66 căn.
Nếu trên một khu vực mà có số dân tương đương một đơn vị hành chính cấp phường có nhiều tòa nhà chung cư, khi đó tại mỗi tòa nhà, cá nhân, tổ chức nước ngoài được sở hữu số lượng căn hộ theo cách thức như trên song tối đa không vượt quá 30% số lượng căn hộ của tất cả các tòa nhà chung cư đó.
Đơn cử như trên một khu vực có số dân tương đương 10000 dân và có 3 tòa nhà chung cư, trong đó tòa A có 1000 căn, tòa B có 300 căn và tòa C có 500 căn thì cá nhân, tổ chức nước ngoài chỉ được sở hữu không quá 330 căn tại tòa A, tại tòa B không quá 99 căn và không quá 165 căn tại tòa C.
Theo đó, tổng số căn hộ mà cá nhân, tổ chức nước ngoài được sở hữu tại cả 3 tòa nhà chung cư này không được vượt quá 600 căn.
Đối với việc xác định số lượng nhà ở riêng lẻ (gồm nhà ở biệt thự, liền kề) mà cá nhân, tổ chức nước ngoài được sở hữu, trên một khu vực có số dân tương đương một đơn vị hành chính cấp phường có một dự án và dự án đó có số lượng nhà ở riêng lẻ dưới 2500 căn, khi đó cá nhân, tổ chức nước ngoài được mua và sở hữu không vượt quá 10% tổng số nhà ở riêng lẻ của dự án này.
Cụ thể, nếu dự án nhà ở A có số lượng nhà ở riêng lẻ 1500 căn, khi đó cá nhân, tổ chức nước ngoài được sở hữu không vượt quá 150 căn.
Với một khu vực có số dân tương đương một đơn vị hành chính cấp phường có một dự án và có số nhà ở riêng lẻ của dự án tương đương 2500 căn thì cá nhân, tổ chức nước ngoài được sở hữu không quá 250 căn.
Tại một khu vực mà có số dân tương đương một đơn vị hành chính cấp phường có từ 2 dự án trở lên và tổng số nhà ở riêng lẻ của các dự án này dưới hoặc bằng 2500 căn thì tại mỗi dự án cá nhân, tổ chức nước ngoài được sở hữu không vượt quá 10% tổng số nhà ở riêng lẻ tại mỗi dự án.
Giả sử, trên địa bàn phường X có 2 dự án đầu tư xây dựng nhà ở, trong đó dự án A có tổng số nhà ở riêng lẻ 900 căn và dự án B có tổng số nhà ở riêng lẻ 1.200 căn. Khi đó, cá nhân, tổ chức nước ngoài chỉ được sở hữu không vượt quá 90 căn tại dự án A và tại dự án B không vượt quá 120 căn.
Việc xác định số dân của dự án tương đương một đơn vị hành chính cấp phường được căn cứ vào chỉ tiêu dân số của dự án theo quy hoạch chi tiết đã được phê duyệt bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
(Pháp luật Việt Nam)